CÁC CÂU LIỄN THỜ TỰ

CÁC CÂU LIỄN THỜ TỰ





ĐÔI LỜI CÁO BẠCH
    Nhân dịp đi cúng đàn tại Thánh Thất Lộ Đỏ vào ngày Rằm tháng Chạp năm Giáp Thân (2004), hiền huynh Lễ sanh Thái Huệ Thanh có tặng cho tôi quyển Tân Luật, tài liệu Lễ Nhạc đường và đặc biệt là quyển viết tay, photo đóng tập: Các Câu Liễn Thờ Tự của Anh lớn Chánh Phối Sư Thượng Thức Thanh (Trưởng ban Thường trực Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo) sưu tập.
    Tuy tuổi cao sức yếu, nhưng Anh lớn không quản công sức sưu tầm những liễn đối về việc thờ tự trong Tòa Thánh, Thánh Thất, tư gia và lễ tang, viết thành tập kèm theo phiên âm quốc ngữ để cho mọi người cùng đọc được. Ở cuối sách có phần phụ lục danh ngôn của Thánh hiền về chữ Nhẫn, Hiếu, Thiện. Đây là một việc làm đáng được trân trọng của Anh Lớn, vì nó thể hiện được tinh thần bảo tồn di sản văn hóa Cao Đài nói riêng, văn hóa dân tộc nói chung. Văn hóa Cao Đài tất nhiên không tách rời truyền thống văn hóa dân tộc mà nhân dân Việt Nam qua bao đời vẫn gìn giữ nó như hơi thở, như mạch sống của mình. Bởi nhờ đó mà Việt Nam ta từ hàng ngàn năm đến nay, vẫn sản sinh biết bao vị anh hùng liệt nữ với tinh thần “Vị quốc vong thân phò xã tắc 為國忘身扶社稷” để “dương danh hậu thế chiếu sơn hà 揚名後世照山河”; nhờ đó mà Đức Chí Tôn trong Tam Kỳ Phổ Độ mới chọn đất Nam bang gieo mầm “Đại Đạo hoằng khai thông tứ hải 大道弘開通四海“. Nhờ đó mà nền tảng luân lý đạo đức vẫn còn được duy trì trong một xã hội mở cửa dung hóa nền văn minh Tây phương đương đại. Điểm trọng của nền văn hóa Việt Nam là mang đậm tính nhân bản, bắt nguồn từ quan điểm uống nước nhớ nguồn và tư tưởng Tam Giáo đồng nguyên.
    Do nhận thấy giá trị của tập sách viết tay của Anh Lớn to tát ngần ấy, tôi xin mạn phép chép lại bằng vi tính và chú thích những chữ cần thiết để người đọc tự mình dịch nghĩa. Hy vọng sau này có điều kiện sưu tầm thêm những liễn đối nơi các Thánh Thất, Thánh Tòa, chúng ta sẽ có thêm bộ sưu tập về Liễn Đối trong Đại Đạo, nhằm giữ gìn tinh hoa văn hóa đạo đức và dân tộc.
Tiết Thanh minh Ất Dậu (2005)
THANH CĂN



1. LIỄN CỬA NGÕ TÒA THÁNH TÂY NINH

CAO thượng Chí Tôn Đại Đạo Hòa Bình dân chủ mục
高上至尊大道和平民主睦
ĐÀI tiền sùng bái Tam Kỳ cộng hưởng tự do quyền
臺前崇拜三期共享自由權
    CHÚ THÍCH: Cao thượng Chí Tôn 高上至尊: Đấng Chí Tôn ở trên cao hơn hết. Chí 至: đến, rất, to lớn. Tôn 尊: *Cao quý, như tôn ti 尊卑 (cao và thấp, quý và tiện). *Quý trọng, như chí tôn 至尊(rất tôn quý); tôn thân 尊親(họ hàng bề trên); tôn nghiêm 尊嚴(sự cao quý, uy nghiêm)… Sùng 崇: *Kính trọng, như sùng bái 崇拜(kính trọng, bội phục, kính lạy). *Cao, như sùng sơn tuấn lãnh 崇山峻嶺(núi cao non thẳm). Mục 目: chỗ tinh thần thiết yếu, chỗ nhắm, như mục đích 目的. Con mắt. Mục 睦: Hòa hợp, thân thiện, như thượng hòa hạ mục 上和下睦(trên hòa dưới thuận).
    Theo Cao Đài từ điển của Hiền tài Nguyễn Văn Hồng, thì câu liễn trên dùng chữ 目: Thuở xưa chữ MỤC 政là chữ CHÁNH 政để đối với chữ QUYỀN 權ở câu 2. Giáo sư Thượng Latapie Thanh, người Pháp, sợ nhà cầm quyền Pháp đương thời hiểu lầm Đạo Cao Đài có chủ trương làm chánh trị, tranh giành chánh quyền, là một điều không tốt với Đạo, nên ông cầu xin Đức Lý Giáo Tông chỉnh sửa lại. Đức Giáo Tông liền giáng cơ sửa chữ CHÁNH 政thành chữ MỤC政. Do đó, đôi liễn trên có ý nghĩa:
  • Đấng Chí Tôn ở trên cao hơn hết, mở ra một nền Đại Đạo nhắm tới hòa bình và dân chủ.
  • Vái lạy kính trọng Đấng Cao Đài thời ĐĐTKPĐ, nhơn sanh chung hưởng quyền tự do.
    Đôi liễn in nơi bìa quyển Kinh Minh Sư từ bên Trung Hoa truyền sang Việt Nam vào thời nhà Thanh:
Cao như Bắc khuyết nhơn chiêm ngưỡng        高如北闕人瞻仰
Đài tại Nam phương Đạo thống truyền            臺在南方道統傳

2. LIỄN CỬA NGÕ HỘI THÁNH BẾN TRE

Đại Đạo Hoằng Khai Tam Giáo quy nguyên thông tứ hải
大道弘開三教歸源通四海
Tam Kỳ Phổ Hóa Ngũ Chi hiệp nhứt độ toàn cầu
三期普化五枝合一渡全球
    Đại Đạo 大道: là con đường lớn do Đức Chí Tôn mở ra cho nhơn sanh noi theo đó mà tu hành, chắc chắn sẽ đắc đạo thành Thần, Thánh, Tiên, Phật. Đạo Cao Đài rất xứng đáng là một nền Đại Đạo vì 3 lý do sau đây:
  1. Giáo chủ của Đạo Cao Đài là Đấng Thượng Đế, Đấng đã tạo ra càn khôn vũ trụ và vạn vật. Đấng ấy là vua của nhựt, nguyệt, tinh. Là chủ của chư Thần Thánh Tiên Phật, là Đại Từ Phụ của vạn linh sanh chúng.
  2. Giáo lý của Đạo Cao Đài là căn nguyên của các tôn giáo khác, nên nó dung hợp được các giáo lý của Tam Giáo và Ngũ Chi.
  3. Đạo Cao Đài có nhiệm vụ tận độ 92 ức nguyên nhân và phổ độ chúng sanh trong một thời gian rất dài là thất ức niên (700.000 năm) mà trước đây không một tôn giáo nào có thời kỳ phổ độ nhơn sanh lâu dài như thế.

    Nghĩa chiết tự Đại Đạo 大道:

    Đại 大do chữ Nhơn 人và chữ Nhứt 一hiệp lại (人 + 一 = 大).
Nhơn là người, viết 2 nét tượng trưng Âm Dương. Do đó chữ Đại 大là âm dương hợp nhứt, mà âm dương hợp nhứt thì phát khởi càn khôn, hóa sanh vạn vật. Còn người (人) mà biết tu luyện đoạt được cơ mầu nhiệm của Đức Chí Tôn thì đắc Nhứt (一). Người mà được đắc Nhứt thì vĩnh kiếp trường tồn, diên niên bất hoại.
    Đạo 道: viết chữ Đạo bắt đầu bằng 2 phẩy 丷 tượng trưng Âm Dương, gạch dưới một gạch 䒑(chữ Nhứt 一) tượng trưng âm dương hiệp nhứt, là cơ sanh hóa của càn khôn vũ trụ. Kế bên dưới là chữ Tự 自, nghĩa là chính mình, tự tri tự giác, tự giải thoát chứ không ai làm giùm cho mình. Trên dưới ráp lại thành chữ Thủ 首, là đứng đầu, là trên hết, là nguồn gốc của càn khôn vũ trụ và vạn vật. Bên hông có bộ Xước ⻌ tức chữ Tẩu 走là chạy, là vận chuyển biến hóa.
    Vậy trong chữ ĐẠO 道 có hàm ý âm dương, động tịnh, động thì sanh hóa, tịnh thì thành.
    Hoằng 弘: rộng lớn, làm cho rộng lớn. Khai 開: mở ra. Hoằng khai Đại Đạo 弘開大道: mở rộng nền Đại Đạo, tức truyền bá, phổ biến giáo lý của nền Đại Đạo rộng rãi khắp nơi. Quy 歸: trở về, chịu theo về. Nguyên 源: nguồn cội. Tam Giáo quy nguyên 三教歸源: ba nền Tôn giáo trở về nguồn gốc. Cái gốc đó là chơn lý tuyệt đối, hằng hữu, thường gọi là Thượng Đế. Ngũ Chi hiệp nhứt 五枝合一: đem năm nhánh gom về làm một, tức là đen Nhơn đạo, Thần đạo, Thánh đạo, Tiên đạo và Phật đạo hiệp một gọi là Đại Đạo.

3. LIỄN CỬA NGỎ THẢO XÁ HIỀN CUNG

Thảo Xá trừng tâm hà hoạn nhá
草舍澄心何患惹
Hiền Cung thanh tịnh diệt vô minh
賢宮清靜滅無明
    Trừng 澄: (nước) trong, lóng lặng, như trừng tâm 澄心(lóng lòng trong sạch); trừng thanh 澄清(lóng nước cho trong, chất cặn lắng dưới đáy. Nghĩa bóng: dẹp sạch kẻ gian tà). 何: Từ để hỏi, *nghĩa là Gì như hà vật 何物(vật gì?); hà sự 何事(việc gì?); hà nhân 何人(người nào?). *Đâu, như hà vãng 何往(đi đâu); tùng hà nhi lai 從何而从來(từ đâu tới?). *Sao, vì sao, như hà vi 何為(vì sao?) *Thế nào, như là như hà 如何(như thế nào?). Nhá 惹(nhạ): Xảy ra, sinh chuyện, như nhạ thị sinh phi 惹是生非(sanh ra chuyện nọ chuyện kia); hà hoạn nhạ 何患惹(làm sao sanh chuyện lo lắng được?). Vô minh 無明: Chỉ cái tâm si mê ám muội, không chiếu rọi rõ ràng sự lý của các pháp.

Đăng nhận xét

Mới hơn Cũ hơn