Nội Luật Thánh Thất

 ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
Đệ thập niên
THÁNH THẤT AN HỘI BENTRÉ

Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương

Thượng Chưởng Pháp Lê Bá Trang

    Chiếu y Tân luật và Pháp Chánh Truyền định quyền hành cho Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài.

    Chiếu y các Thánh giáo của Đức Chí Tôn và Đức Lý Giáo Tông gián dạy về cơ Chỉnh Đạo.

    Nghỉ vì nơi các họ Đạo, các Thánh Thất, việc sấp đặt điều đình chưa đặng hoàn toàn;

    Sự cần nhứt là nơi mổi họ Đạo phải có sấp đặt nhà tu trung thừa hoặc thượng thừa cho Đạo hửu dốc chí hiến thân vào ở tu hành, như bên Đạo Phật và Đạo Thiên Chúa vậy:

    Đả có bàn luận tong hội Thánh nhóm hôm ngày mùng 6,7 và 8 tháng tư năm Ất Hợi (8,9 et 10 Mai 1935).

NGHỊ ĐỊNH

    Điều thứ nhứt: Ban hành kể từ ngày rằm tháng 7 năm Ất Hợi ( 13 Août  1935) Nội luật Thánh Thất, biên tiếp ra sau nầy, cho toàn trong nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ tuân theo mà lập họ Đạo Thánh Thất và nhà tu y nhau một khuôn một kiểu.

    Điều thứ hai: Nội viện Trưởng lảnh thi hành lời nghị nầy.

Bentré ngày 10 tháng 7 năm Ất hợi

(8 Août 1935)

Giáo tông NGUYỂN NGỌC TƯƠNG

Thượng Chưởng Pháp LÊ BÁ TRANG

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
ĐỆ THẬP NIÊN
NỘI LUẬT THÁNH THẤT
CHƯƠNG I
VỀ VIỆC CAI TRỊ ĐẦU HỌ ĐẠO

    Điều thứ nhứt: Mỗi họ Đạo gồm một hay nhiều làng có số Đạo hữu trên năm trăm người, được tạo ra một cái Thánh Thất song phải có phép của Đức Giáo Tôn ban cho.

    Điều 2: Mỗi họ Đạo có một vị Giáo Hửu hay là Lể Sanh làm đầu. Vị nầy chọn lựa được trong hàng chức sắc phế đời hiến thân vào Đạo, thì tốt hơn; phải ở tại Thánh Thất mà điều đình họ Đạo, phân phán giải hòa các việc xảy ra trong Đạo Hữu, lo các việc đạo đức tu hành, củng như một ông sư ở chùa Phật, như ông cha sỡ ở nhà thờ vậy.

    Điều 3: Chức sắc đầu họ Đạo phải lo cúng tứ thời, sóc, vọng, chứng lể khai đàng, cầu siêu, thành hôn, cầu lành bịnh và các lể vía khác nơi Thánh Thất.

    Điều 4: Phần nuôi dưởng cơm áo cho vị chức sắc nầy, về trong họ Đạo phải chịu; xuất trong số tiền của bổn Đạo hành hương dưng cúng.

    Điều 5: Dưới quyền chức sắc đầu họ Đạo, có một bàn trị sự để giúp việc cai trị trong họ Đạo, và một bàn cai quản để giúp việc điều đình trong Thánh Thất.

    Điều 6: Ban hành thiện để y như cũ, cũng dưới quyền chức sắc đầu họ đạo. Chừng nào các nhà tu đã sắp đặt rồi, phận sự cũa ban hành thiện lần lần sẻ nhập vào đó.

BÀN TRỊ SỰ

    Điều 7: Bàn Trị Sự gồm hế thảy chánh phó Trị Sự và Thông Sự nam nữ của mấy làng tùng họ Đạo. Chức việc nầy của hết thảy Đạo Hữu  trong họ Đạo hiệp lại công cữ lên, do ông đầu họ Đạo tọa chủ.

    Điều 8: Phận sự và Đạo phục của chánh phó trị sự và thông sự do theo Pháp Chánh Truyền nhưng trên Đạp phục không buộc gắn cổ pháp và ren

    Điều 9: Buộc chánh phố Trị sự và Thông sự phải có mặt nơi Thánh Thất sở tại mổi tháng hai ngày sóc, vọng và mấy ngày lể vía lớn. Mổi khi đến Thánh Thất phải ký tên vào sổ kỷ niệm riêng cho biết ai có đến, ai không.

    Vị nào vắn mặt trong ba kỳ đàn mà không có cho ông đầu họ Đạo hay trước, thì ông đầu họ phải gởi tờ lên cho ông đầu họ tỉnh biết mà phán đoán. 

    Điều 10: Định cho chánh phó Trị sự và Thông sự làm việc cho đạo mổi hạng là hai năm, mảng hạng rồi được nghỉ. Trong họ Đạo lo chọn cữ người khác thay thế. Như người đã mảng hạng rồi mà còn đủ sức lực, và trong họ Đạo còn tín nhiệm, muốn ra dự cữ lại đặng giúp họ Đạo nữa, càng tốt.

    Điều 11: Kể từ ngày ban hành nội luật nầy, những chức việc giúp  đạo đã được từ hai năm sấp lên, kể là mảng hạng, kể là mảng hạng, được nghỉ hay xin cữ lại.

    Điều 12: Chức việc bàn trị sự trước khi hành chánh phải lập nguyện giữa Thiên bàn rằng: hết sức lo làm tròn phận sự theo luật lệ của Đạo, và các mạng lịnh của Giáo Tông, giữ lòng công bình ngay thật luôn luôn; về việc tiền tài của Đạo, một hào không phạm. Như lổi nguyện có Thánh Thần soi xét gia hình.

    Ông đầu họ chứng đàng lập vi bằng để dấu tích.

BÀN CAI - QUẢN

    Điều 13: Nơi mổi Thánh Thất có đặt một Bàn Cai Quản do Bàn trị sự với đạo hữ Nam Nữ mà cữ lên, để lo quản suất các việc trong Thánh Thất.

    Trong Bàn Cai Quãn có chia ra bốn phòng việc là: Phòng Thơ, Phòng Lễ, Phòng Lương và Phòng Công. Mổi phòng có một quản lý làm đầu và một, hay nhiều phó quản lý giúp việc.

    Trên hết các phòng việc có một Hội Trưởng làm đầu và một Phó hội Trưởng đễ thay thế, khi hội trưởng vắn mặt, một Thủ Bổn và một Từ Hàng.

    Điều 14: Định phận sự của mổi phòng việc như sau nầy:

        1. Phòng Thơ:  Từ Hàng làm quản lý, hay về thơ tin vản lai, châu tri, bố cáo, vi bằng, các thứ sỗ bộ như là: sổ đồ từ khí, sổ kỹ niệm, bộ đạo hữu, bộ sanh tữ, hôn thú v.v...

        2. Phòng Lể: Hay về các việc cúng kiến thờ phượng, làm sớ cúng đàng, coi sóc nơi Bữu điện cho tinh khiết, lo sắp đặt các lể sóc vọng và các lể vía, các lể cầu siêu, cầu bịnh, cầu an, cầu hôn; lo tiếp khách, chỉnh đàng cho có đủ lể nghi, giử gìn cho có trật tự, lo các việc về phước thiện.

        3. Phòng Lương: Thủ Bổn làm quãn lý, hay về lương thực tiêu dùng trong Thất, về việc lý tài của đạo; giử tiền bạc, coi sổ thâu xuất mổi ngày, còn quyền xuất phát về một mình Chánh hội trưởng mà thôi; giử chìa khóa tủ tiền hành hương, coi thâu huê lợi đất điền của đạo vân vân.

        4. Phòng Công: Hay về việc làm nhà cửa, ruộng, vườn; làm các công nghệ trong Thất có thế đặt bày; tiếp người làm công quã, coi hết các việc tạo tát, sữ sang trồng tỉa, chở chuyên vân vân.

    Điều 15: Chức việc Bàn Cai Quản chọn lựa chung trong hàng chức sắc, chức việc và Đạo hữu Nam nử mà cữ lên làm mỗi hạng hai năm; song người mãng hạng được tái cữ lại hoài, nếu người ấy còn đủ sức lực giúp Đạo và còn được trong họ Đạo tín nhiệm.

    Điều 16: Kễ từ ngày ban hành nội luật nầy, nhửng chức việc, Bàn Cai Quản đã giúp việc đạo từ hai năm sấp lên kể là mảng hạng, được nghỉ hay xin dự cử lại.

    Điều 17: Chức việc Bàn cai Quản cũng phải lập nguyện y như chức việc ban trị sự trước khi thi hành phận sự mình.

    Điều 18: Khi luật nầy ban hành ra rồi chức việc Bàn trị sự và Bàn cai quản phải lo lập nguyện cho Thánh Thần chứng chiếu lòng ngay thật Đạo đức của mình mà giúp sức thiêng liêng cho mình làm tròn phận sự.

    Điều 19: Đạo phục của chức việc, Bàn cai Quản là khăn đen, áo Đạo bằng vải trắng có ba giãi thẻ.

CHƯƠNG II
VỀ TÀI SẢN

    Điều 20: Những tài sản trong Đạo là của Chức sắc, tín đồ dưng cúng; huê  lợi đất điền nhà phố của Đạo; huê lợi các cơ sở công nông các nhà tu nhờ công quã làm ra v.v. Đất điền nhà cữa của Đại Đạo Tam Kỳ Phỗ Độ, để tên Đức Giáo Tông thay mặt cho Đạo đứng bộ làm chủ.

    Điều 21: Đất nhà thuộc về họ Đạo nào, thì người làm đầu họ Đạo ấy lo giử gìn trồng tỉa, hay là cho mướn thâu huê lợi, đóng thuế, chi dụng trong Thánh Thất và nạp về Tòa Thánh ít nhiều, ông đầu họ sẻ thương lượng với Bàn Cai Quãn mà nhứt định.

    Điều 22: Nơi mổi Thánh Thất có đê một cái tủ tiền hành hương. Ai có muốn cúng bao nhiêu tự mình bõ tiền vô đó; muốn cho Hội Thánh biết thì biên tên mình trên gói tiền mà bõ vào tủ.

    Điều 23: Ai muốn cúng về Tòa Thánh thì cũng biên rõ trên gói tiền cúng mà bõ vào tủ; khi mở tũ số tiền nầy sẽ để riêng mà nạp về Tòa  Thánh.

    Điều 24: Mổi tháng hai kỳ sóc vọng, Thủ Bỗn hiệp với Chánh hay Phó Hội Trưởng và hai chức việc trong Bàn cai Quản, mở tủ tiền, được bao nhiêu lập vi bằng giao lại cho Thủ Bổn ký tên nhận lãnh giữ gìn cho Đạo.

    Điều 25: Cấm không cho một chức sắc hay chức việc nào thâu tiền bạc chi cũa Đạo hữu hết. Tiền bạc nhiều ít chi tùy ý cúng cho Đạo, cứ bõ vào tủ đó mà thôi.

    Điều 26: Cấm không cho nuôi súc vật nơi trong cuộc Thánh Thất, để bán mà thũ lợi. Vì nếu mình biết bán cho người khác giết mà ăn thịt, thì mình giử sao cho trọn giới sát sanh.

    Điều 27: Trong cuộc Thánh Thất, những Đạo hữu hiến thân ở tu hành được làm các công nghệ, như là làm ruộng, làm vườn, trồng tĩa các thứ rau đậu, làm thợ mộc, thợ hồ vân vân... trừ các nghề có phạm luật Đạo (Ngủ giái cấm). 

CHƯƠNG III
VỀ VIỆC PHƯỚC THIỆN

    Điều 28: Trong họ Đạo, mổi khi có việc tang hôn, bịnh hoạn, tai ách, thì phải chung lo giúp đở cho nhau, công cũa ít nhiều tùy hỉ, Việc nầy là chánh phận sự cũa Ban hành Thiện.

    Điều 29: Nơi mổi họ Đạo có trên 1000 Đạo hữu nam nử, phải có sấm một chiếc thuyền Bác Nhả, một giạ nhạc lể, và đồng nhi, và một miếng đất nghỉa địa.

    Các cuộc lập ra trên đây để giúp ích cho Đạo hữu, khỏi trả tiển công đức chi hết.

    Điều 30: Chức sắc, đầu họ Đạo hiệp với Bàn cai Quản và Bàn trị Sự, và Ban hành Thiện, lo chủ trương sấp đặt các cuộc phước thiện; họ Đạo nào có đũ sức về tài chánh sẽ lập thêm nhà nuôi dưởng nhửng người già cả, tàng tật quan quả, và những trẻ bé con mồ côi cha mẹ.

CHƯƠNG IV
VỀ NHÀ TU

    Điều 31: Theo mổi họ Đạo, mỗi Thánh Thất sẻ có sấp đặt một hay nhiều nhà tu để cho nhửng Đạo hữu quyết chí tu, đến hiến thân vào Đạo ở đó tu hành, khép mình trọn vào luật đạo. Ăn mặc thế sưu, đau ốm, về phần Đạo chung lo cho hết thảy.

    Điều 32: Người tu theo Đ.Đ.T.K.Ph.Đ phải làm âm chất cho nhiều. Mà muốn được nhiều âm chất thì phải làm nhiều công quã.

    Vậy sự cần nhứt của người vào nhà tu nầy, là phải làm công quả tùy theo đạo đức, tài năng, mạnh khỏe của mổi người: hoặc làm công quã theo văn phòng cữu viện, hoặc theo các việc phước thiện, giáo dục, hoặc theo các sở nông tang công nghệ cũa chùa sẻ sấp đặt ra có chổ cho người tu dùng sức mình vào đó.

    Điều 33: Ai muốn tu đều được xin vào nhà nầy mà tu, trừ ra những người già yếu, đau ốm tật nguyền sẽ có nhà dưởng lảo tế cô của Đạo sẽ lập ra mà nuôi dưởng riêng.

    Phái nử muốn vào phải có chồng, còn đồng nhi thì phải có cha mẹ tu theo hay cho phép mới được.

    Điều 34: Nhà tu nầy chia ra làm hai hạng: Trung thừa và Thượng thừa.

        1. Vào hạng trung thừa, nhửng người Đạo còn giử trai kỳ từ thiên nguơn sấp lên còn vợ chồng con cái, song sự tranh đua chen lấn ngoài đời đều bỏ dứt.

        2. Vào hạng thượng thừa, những người Đạo trường trai, tuyệt dục, giữ tròn ngủ giái cấm tam qui, phế hết muôn việc trần gian, đễ tâm không không mà vui mùi đạo đức.

    Điều 35: Nhà tu trung thừa lập theo các họ Đạo, các Thánh Thất bực thường, để tập Đạo hữu trau dồi đức hạnh, tập sữa tâm tánh đem mình đem lần lên bực thượng thừa là chỗ người tu ai cũng mông bước đến.

    Điều 36: Nhà tu thượng thừa lập theo các họ Đạo lớn, nhứt là ở nơi tỉnh thành, việc tu hành nơi đó có mười bực: từ bực Thính Thiện, Hành Thiện, đối với bực Địa Thần, Nhơn Thần lên cho tới bực Tiên từ, Phật tữ. Phải tu ở mổi bực ít nữa là ba năm.

    Điều 37: Nhửng chức sắc trong Hội Thánh từ Giáo hữu sấp lên sẽ chọn lựa trong hạng người tu bực thượng thừa.

    Điều 38: Mỗi năm, Đức Giáo Tông sẻ hội Tam giáo xem xét công quả đạo đức của mổi người tu trung thừa và thượng thừa mà cho thăng lên bực và chọn những người đáng đem vào hạng được khai khiếu điểm Đạo.

    Điều 39: Mổi nhà tu trung thừa có một người chức sắc từ bực Lể sanh sấp lên làm đầu. Còn nhà tu thượng thừa thì từ bực Giáo sư sấp lên mới được chưởng quản.

    Chức sắc lảnh phận sự nầy nhứt nhứt phải tùng mạng lịnh của Đức Giáo Tông truyền dạy không được tranh cải theo ý riêng của mình mà lạt chơn truyền của Đại Đạo.

    Điều 40: Muốn cho mổi chức sắc ai cũng có thế làm công quã xứng đáng mà lập vị mình lên thêm cao thượng, nên buộc từ Lể sanh đổ lên, mổi vị phải lo lập một sở nhà tu, hoặc trung thừa, hoặc thượng thừa. Hạng cho trong một năm, kể từ ngày ban hành nội luật nầy, người nào lập xong rồi sẻ được chọn lựa vào hạng được khai khiếu điểm Đạo. Mỗi nhà tu sẻ lập ra phải có phép của Đức Giáo Tông cho mới được.

    Điều 41: Nhửng điều lệ nào đã ban hành khi trước mà có trái với điều lệ nầy đều hủy bỏ.

LẬP TẠI THÁNH THẤT BENTRÉ

trong kỳ nhóm Hội Thánh ngày mùng 6-7-8 tháng tư năm Ất hợi (8-9 et 10 Mai 1935)

Giáo tông NGUYỂN NHỌC TƯƠNG

Thượng chưởng Pháp LÊ BÁ TRANG

VỰNG MẠNG LỊNH BAN TRUYỀN

Bentré ngày 12 tháng 7 năm Ất Hợi

Nội Viện Trưởng

Phối sư THƯỢNG LAI THANH



Đăng nhận xét

Mới hơn Cũ hơn